Núi Pác Tạ (trong tiếng Tày có nghĩa là "vú của trời") hay còn gọi là Núi Voi, là ngọn núi cao nhất huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang, có dáng hình chú voi đứng bên nậm rượu. Sừng sững, uy nghiêm, thoắt ẩn, thoắt hiện trong mây vờn bên hồ thủy điện Tuyên Quang, núi Pác Tạ là nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sỹ, du khách sáng tác thơ ca, hội họa và nhiếp ảnh.
TRUYỀN THUYẾT NÚI PÁC TẠ NÀ HANG
Xưa kia trong khu rừng rậm có rất nhiều loài thú dữ, mà voi là loài đặc biệt có sức kéo tốt nhưng lại khó thuần. dân bản nơi đây đã cố gắng tìm đủ mọi cách, để thuần những chú voi dữ tợn này để dùng làm sức kéo chuyên chở nhưng vật dụng và phương tiện đi lại. Năm đó có giặc ngoại xâm vào xâm chiếm lãnh thổ nước ta.
Nhân dân đã tập trung tất cả binh lực để dồn cho cuộc chiến. thế nhưng trong đàn voi mà dân bản tập trung được lại có 1 chú voi không ai có thể thuần dưỡng được, bao nhiêu tướng lĩnh giỏi cũng phải lắc đầu chịu bó tay trước chú voi hung dữ này. Nhưng cuối cũng ở đâu lại xuất hiện 1 người quản voi từ xa tới xin đảm nhận công việc này.
Ngày đầu tiên ông đã cho chặn tất cả nhưng dòng suối xung quanh vùng voi sinh sống, 3 ngày sau nó khát lắm, lúc này ông mới bắt đầu đổ rượu vào hõm đá, voi lần đến đó để uống thay nước. Năm ngày …rồi mười ngày, lâu dần thành quen. Và dân dần voi bắt đầu quen với rượu và người quản voi. Ông đã có thể đặt bành lên lưng voi và điều khiển đi theo mệnh lệnh. Từ đó người ta gọi chú là Voi Rượu. Đến ngày xuất trận voi rượu hùng dũng đi đầu xông vào đội hình quân giặc, giặc bị rầy xéo chết như ngả dạ. Tan giặc, Voi Rượu lẳng lặng hút rừng nậm rượu. Một nậm, hai nậm rồi 3 nậm nhưng chỉ đến nậm thứ 5 thì voi đã tắt thở. Kỳ lạ thay, voi chết mà vẫn cứ đứng sừng sững. Đêm đó trời mưa tầm tã, gió rít ào ào như sự tiếc thương của dân bản đối với voi rượu. sáng ra người ta đã thấy cả voi và nậm rượu đã hóa thành đá. Đến nay hình tượng đó vẫn còn và dân bản đặt tên là Pác Tạ
Nằm dưới chân núi Pác Tạ có dấu tích của một ngôi đền cổ. Tương truyền, vào đời Trần có người thiếp của tướng quân Trần Nhật Duật theo chồng đi kinh lý vùng sông Gâm và sông Năng. Trên đường về, thuyền chở người thiếp bị gặp nạn. Do nước quá sâu, lại chảy xiết nên không thể cứu vớt được nàng. Cho đến mấy ngày sau, xác của nàng mới tìm thấy và được mai táng bên bờ sông Năng dưới chân núi Pác Tạ. Ngôi đền thờ người thiếp được dựng ngay gần nơi chôn cất để tưởng nhớ người thiếp của tướng quân Trần Nhật Duật.
Khởi nguyên, đền Pác Tạ nằm trên một doi đất bên hữu ngạn sông Năng phía đối diện với vị trí hiện nay. Đền được dựng với kết cấu 3 gian 2 chái bằng tranh, tre, nứa, lá - vật liệu được khai thác tại địa phương. Nhưng đến một hôm, trời nổi cơn giông lớn, mái đền bị gió cuốn bay qua sông sang dẻo đất cao đối diện, dưới chân núi Pác tạ. Nhân dân địa phương cho rằng đây là ý của “ Đức Thánh Mẫu” nên từ đó ngôi đền được dựng khang trang, bề thế dưới ngọn núi Tạ sơn huyền sử. Tới năm 1959, trong khi đốt nương, do vô ý người dân đã làm cháy toàn bộ ngôi đền, đến nay chỉ còn lại là dấu tích nền xưa.
Qua quá trình biến thiên của lịch sử cũng như sự thay đổi của thời gian, đến nay đền Pác Tạ đã được xây dựng khang trang để nhân dân bày tỏ lòng thành kính, niềm khát vọng của mình mong sao nhờ sức mạnh của Đức Thánh Mẫu mà ban cho cuộc sống bình yên, dân khang vật thịnh, đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân trải qua bao thế hệ. Đây là một ngôi đền thiêng, mỗi khi du khách qua đây đều ghé lại thắp hương cầu nguyện
Đền Pác Tạ nằm ở địa thế cao, bằng phẳng dưới chân núi Pác Tạ. Cửa đền quay về hướng nam, trông ra dòng sông Gâm theo thuyết phong thủy “Tiên minh đường hữu hậu chẩn” ở thế đất địa linh “sơn kỳ thủy tú”. Sự kết hợp giữa cảnh sắc thiên nhiên với nhịp sống con người miền sơn cước tạo nên cảnh sắc sơn thủy hữu tình.
Ngày nay, núi Pác Tạ và đền Pác Tạ là điểm du lịch sinh thái, tâm linh hấp dẫn du khách trong nước và quốc tế.
EmoticonEmoticon